NGUYỆN XIN THIÊN CHÚA BAN MUÔN HỒNG ÂN ĐẾN QUÝ VỊ VÀ ANH CHỊ EM

GIÁO XỨ KẺ VĂN SẼ THƯỜNG XUYÊN CẬP NHẬT NHỮNG THÔNG TIN MỚI NHẤT

VỀ SINH HOẠT CỦA GIÁO XỨ ĐẾN QUÝ VỊ VÀ ANH CHỊ EM GIÁO DÂN THUỘC GIÁO XỨ KẺ VĂN

HIỆN ĐANG SINH SỐNG TẠI GIÁO XỨ,TRÊN MỌI MIỀN ĐẤT NƯỚC CŨNG NHƯ Ở HẢI NGOẠI

Thứ Tư, 22 tháng 9, 2010

CÔNG TÁC ĐÚC THÁP CHÍNH

Ngày 20 tháng chín, 2010 công trình nhà thờ Kẻ Văn bắt đầu công việc đóng coffa đúc tháp chính.
Đây là phần cuối cùng trong xây dựng cơ bản của nhà thờ.
Tháp được đúc bằng bê-tông cốt thép cao 9met tính từ lầu chuông hình bát giác.

Tiến độ thi công dự kiến sẽ đổ bê-tông vào ngày 25/9/2010 
và hoàn tất phần tháp chính và hai tháp phụ vào 15/10/2010

  
 Nhà thờ Kẻ Văn đang xây dựng nhìn từ làng Hòa Viện

Nhà thờ Hòa Viện 
đối diện với nhà thờ Kẻ Văn bị hư hại trong chiến tranh (1968) cùng lúc với nhà thờ Kẻ Văn

  
  
Tháp nhà thờ Kẻ Văn (đang xây dựng) nhìn từ nhà thờ Hòa Viện (bên dưới tàu lá chuối)

Chủ Nhật, 12 tháng 9, 2010

THÁNH GIUSE LÊ ĐĂNG THỊ

Thánh Giuse Lê Đăng Thị

Giuse Lê Ðăng Thị
Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.

Cùng bạn về trời
Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê Đăng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một gócnhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay (24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần". Thế là ông có một người bạn đồng hành với mình vào quê hương vĩnh phúc trên Trời.
Giuse Lê Đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Qũy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội. Lớn lên anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.


Bão tố và niềm tin
Vua Tự Đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa được thi hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công Giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. "những quan nào có đạo (theo tà đạo), dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều đình theo tà đạo. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng…". Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. "Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu".
Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây được áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu. Cuối tháng hai, ông phải ra tòa cùng với 31 quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo. Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vị gìa yếu, còn lại 10 người bị thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình giam hậu.
Riêng ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: "Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày".

Xứng danh huynh trưởng
Suốt thời gian trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, cam đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và bị đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các bạn tù lo lắng lớn nhất của mình. ông nói : "Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi ! Chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".
Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thày giảng cũng lén vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau : "Lê Đăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu".

Vạn phúc
Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo". Lý hình quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế - Huế.
Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh

(Hài ct Giuse Lê Ðăng Thị, Chưởng vệ, được đt trong nhà th Dòng Chúa Cu Thế Huế)

Li bt h: Bn án ca ông Cai đi như sau: "Lê Ðăng Th, Chưởng v, theo tà đo, không chu b đo thì y không th tha th được". Y b kết an x gio cui mùa thu. Khi nghe bn án xong ông kêu ln tiếng: "Vn phúc, vn phúc! Tôi sp được T đo".

Thứ Năm, 2 tháng 9, 2010

CUNG THÁNH


Cung Thánh nhà thờ Kẻ Văn sẽ được xây dựng theo lối kiến trúc vòm gothic. Chính giữa có tượng Chúa chịu nạn bằng gỗ cao 1,80m tính từ đỉnh đầu đến chân Chúa. Nhà tạm và bàn thờ dâng Thánh lễ cũng theo lối kiến trúc cổ điển Châu Âu. Nhà tạm bằng gỗ chạm trổ hoa văn, Bàn thờ chính dài 3 mét rộng 1,10 mét dày 15 cm, cao 1,05 mét bằng đá cẩm thạch được lấy từ Thanh Hóa do nghệ nhân điêu khắc đá Non Nước (Đà Nẵng) thực hiện. 

Hy vọng nhờ ơn Chúa và nhờ lòng hảo tâm của quý vị mạnh thường quân trong và ngoài nước giúp đở, Cung Thánh sẽ sớm được hoàn thành trước lễ Giáng Sinh 2010.